Nguy cơ cạn kiệt nguồn nước

|

Việt Nam đang đứng trước nguy cơ thiếu nước sạch do ô nhiễm môi trường và nước biển dâng vào năm 2030. Đó là cảnh báo mới nhất vừa được tổ chức Liên hiệp quốc đưa ra. \r\n

Giảm số lượng lẫn chất lượng
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, Việt Nam có tổng trữ lượng nư??c khai thác tiềm năng khoảng 63 tỷ m3/năm. Nước dưới đất phân bố không đồng đều trên phạm vi cả nư??c,  tập trung chủ yếu ở đồng bằng Bắc bộ, Nam bộ và khu vực Tây Nguyên.
Tổng lượng nư??c đang khai thác, sử dụng hàng năm khoảng 81 tỷ m3, xấp xỉ 10% tổng lượng nư??c hiện có trung bình hàng năm của cả nư??c. Nguồn nư??c của Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào nư??c ngoài vì có gần 2/3 lượng nư??c từ nư??c ngoài chảy vào.
Trong khi các nư??c ở khu vực thượng lưu đang tăng cường xây dựng các công trình thủy điện, chuyển nư??c và xây dựng nhiều công trình lấy nư??c, gây nguy cơ nguồn nư??c chảy về nư??c ta sẽ ngày càng suy giảm và Việt Nam sẽ khó chủ động được về nguồn nư??c.
Nhu cầu nư??c gia tăng, trong khi nguồn nư??c đang tiếp tục suy giảm, đặc biệt trong mùa khô. Có 4 lưu vực sông đang bị khai thác ở mức căng thẳng bao gồm sông Mã, sông Hương và các sông thuộc tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu. 
Dự báo đến năm 2020, tình trạng khan hiếm, thiếu nư??c sẽ còn tăng mạnh so với hiện nay và hầu hết lưu vực sông của Việt Nam đều ở trạng thái căng thẳng về sử dụng nư??c.
Không chỉ nguy cơ thiếu hụt nguồn nư??c, Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng nguồn nư??c bị ô nhiễm kéo dài, ảnh hưởng đến sinh hoạt của nhiều khu vực dân cư. Một số khu vực, nư??c dưới đất có nguy cơ ô nhiễm chất arsen cao, nhất là ở vùng đồng bằng sông Hồng (có 792 xã) và đồng bằng sông Cửu Long (229 xã), vùng Bắc Trung bộ (155 xã).
Nhà máy xử lý nư??c thải Bình Hưng đang xây dựng, sau khi hoàn thành sẽ góp phần tái tạo, bảo vệ nguồn nư??c thành phố. Ảnh: CAO THĂNG   
Đặc biệt, nguồn nư??c ở hầu hết khu vực đô thị, khu công nghiệp, làng nghề đều đã bị ô nhiễm, nhiều nơi ô nhiễm nghiêm trọng (như lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy, sông Cầu và sông Đồng Nai, sông Sài Gòn) do nư??c thải từ các cơ sở sản xuất, khu công nghiệp, đô thị không được xử lý hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn nhưng vẫn xả vào nguồn nư??c.
Theo nhận định của Bộ Tài nguyên và Môi trường, rừng đầu nguồn bị suy giảm, diện tích rừng không được cải thiện, chất lượng rừng kém đã làm giảm nguồn sinh thủy. Đây là một trong những nguyên nhân cũng góp phần làm nguồn nư??c cạn kiệt, thiếu nư??c trong mùa khô và gia tăng lũ ống, lũ quét, sạt lở đất vào mùa mưa trong thời gian gần đây. Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu và nư??c biển dâng, xâm nhập mặn cũng tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới tài nguyên nư??c.
Mùa khô ngày càng kéo dài, hạn hán gây thiếu nư??c xảy ra trên diện rộng từ năm 2008 đến nay. Mực nư??c biển dâng cao dẫn tới ngập lụt vùng ven biển; gia tăng tình trạng xâm nhập mặn vùng cửa sông, đồng bằng ven biển; gây xói lở, sa bồi…
Phải thực hiện đồng bộ các giải pháp
Để ngăn nguy cơ cạn kiệt và thiếu nư??c trong tương lai, nhiều ý kiến cho rằng, phải đảm bảo an ninh nguồn nư??c quốc gia, nhất là đối với nguồn nư??c liên quốc gia của Việt Nam.
Đây là vấn đề hệ trọng, có ý nghĩa sống còn, đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các giải pháp, cơ chế hợp tác, đối thoại, đấu tranh nhằm đảm bảo khai thác, sử dụng công bằng hợp lý nguồn nư??c của các sông liên quốc gia, hạn chế các tác động, rủi ro; đồng thời cũng phải có phương án, giải pháp để chủ động giải quyết các vấn đề phát sinh.
Chúng ta cần đẩy mạnh nghiên cứu, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật và tăng cường năng lực thực thi có hiệu quả các chính sách, pháp luật trong quản lý và bảo vệ tài nguyên nư??c; tập trung đưa Luật Tài nguyên nư??c thực sự đi vào cuộc sống, bảo đảm việc thực hiện nghiêm các yêu cầu phòng chống ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nư??c, bảo vệ tài nguyên nư??c quốc gia hiệu quả và bền vững; xây dựng các cơ chế chia sẻ, phối hợp, giám sát để tăng cường điều phối các hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nư??c và phòng chống những tác hại do nư??c gây ra.
Liên quan đến lĩnh vực này, ông Cao Lại Quang, Chủ tịch Hội Cấp thoát nư??c Việt Nam, cho rằng bên cạnh giải pháp tuyên truyền sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn nư??c, Việt Nam cũng phải đẩy mạnh đầu tư các dự án xử lý nư??c, nguồn vốn ??ể đầu tư dự án xử lý nư??c đạt tiêu chuẩn cung cấp cho các dô thị trong giai đoạn 2020-2025, ước tính cần khoảng gần 11 triệu USD. 
Trao đổi về nội dung này, TS Bùi Du Dương, Trưởng ban Quan trắc giám sát tài nguyên nư??c, Bộ Tài nguyên và Môi trường, cho biết Việt Nam cần phải sớm xây dựng và triển khai quy hoạch tài nguyên nư??c chung cho cả nư??c, quy hoạch tài nguyên nư??c các lưu vực sông lớn, liên tỉnh và quy hoạch tài nguyên nư??c ở từng địa phương; tạo cơ sở, lộ trình cụ thể nhằm giải quyết đồng bộ các vấn đề bảo vệ tài nguyên nư??c; củng cố, kiện toàn bộ máy, nâng cao năng lực khoa học, công nghệ, năng lực quản lý tài nguyên nư??c ở các cấp và tăng cường xã hội hóa các hoạt động điều tra cơ bản, quan trắc, lập quy hoạch và các dịch vụ công khác về tài nguyên nư??c.
Đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông, giáo dục để nâng cao nhận thức của xã hội về an ninh nguồn nư??c, trách nhiệm bảo vệ và sử dụng nguồn nư??c tiết kiệm, hiệu quả. Cùng với đó là đầu tư và tổ chức thực hiện điều tra cơ bản, quy hoạch tài nguyên nư??c; xây dựng hệ thống quan trắc, giám sát tài nguyên nư??c, hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tài nguyên nư??c, nâng cao khả năng dự báo tài nguyên nư??c, ô nhiễm nguồn nư??c, lũ, lụt, hạn hán, xâm nhập mặn, nư??c biển dâng và các tác hại khác do nư??c gây ra; hỗ trợ phát triển nguồn nư??c và phát triển cơ sở hạ tầng về tài nguyên nư??c.
Trang web cá cược đá gà